$9
Theo Điều 158 BLDS năm 2015: Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền đị
Theo Điều 158 BLDS năm 2015: Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật.
Theo Điều 159 BLDS năm 2015 quyền khác đối với tài sản bao gồm:
- Quyền khác đối với tài sản là quyền của chủ thể trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác.
- Quyền khác đối với tài sản bao gồm:
a) Quyền đối với bất động sản liền kề;
b) Quyền hưởng dụng;
c) Quyền bề mặt.
2. Nguyên tắc xác lập, thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản?
Theo quy định tại Điều 160 BLDS năm 2015 nguyên tắc xác lập, thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản như sau:
- Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản được xác lập, thực hiện trong trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.
Quyền khác đối với tài sản vẫn có hiệu lực trong trường hợp quyền sở hữu được chuyển giao, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
- Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được trái với quy định của luật, gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
- Chủ thể có quyền khác đối với tài sản được thực hiện mọi hành vi trong phạm vi quyền được quy định tại Bộ luật này, luật khác có liên quan nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản hoặc của người khác.
3. Thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản được xác định như thế nào?
Thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản thực hiện theo quy định Điều 161 BLDS năm 2015, luật khác có liên quan; trường hợp luật không có quy định thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên; trường hợp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là thời điểm tài sản được chuyển giao.
Thời điểm tài sản được chuyển giao là thời điểm bên có quyền hoặc người đại diện hợp pháp của họ chiếm hữu tài sản.
- Trường hợp tài sản chưa được chuyển giao mà phát sinh hoa lợi, lợi tức thì hoa lợi, lợi tức thuộc về bên có tài sản chuyển giao, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
4. Quyền đòi lại tài sản được pháp luật quy định như thế nào?
Tại Điều 166 BLDS năm 2015, quyền đòi lại tài sản được quy định như sau:
Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.
Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ sự chiếm hữu của chủ thể đang có quyền khác đối với tài sản đó.
5. Làng X thuộc xã Y có một ngôi đền cổ thờ thành hoàng làng. Ngôi đền được trùng tu, tôn tạo hàng năm nhưng vẫn bị xuống cấp, đòi hỏi phải có kinh phí cơ bản để bảo trì tổng thể kiến trúc của ngôi đền. Phía trước ngôi đền có một cây gỗ quý lâu đời rất có giá trị. Đã có nhiều người buôn gỗ đến đề nghị với các vị cao tuổi trong làng (thuộc ban quản lý đền) mua cây gỗ trên. Các cụ trong làng đã cho họp toàn thể dân làng xin ý kiến về việc bán cây gỗ để lấy tiền trùng tu ngôi đền. Phần lớn các ý kiến đều nhất trí vì cho đây là một cơ hội hiếm có để có một số tiền lớn như vậy… Nhưng vẫn có một số ít ý kiến phản đối vì lý do tâm linh không nên tự ý chặt cây lâu năm trong đền dẫn đến mâu thuẫn phát sinh. Xin hỏi, Ban quản lý đền có quyền bán cây gỗ trước cửa đền không khi các thành viên trong làng không đồng ý?
Ngôi đền và cây gỗ thuộc sở hữu chung của cộng đồng dân cư theo quy định tại Điều 211 BLDS năm 2015.
Sở hữu chung của cộng đồng là sở hữu của dòng họ, thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc, cộng đồng tôn giáo và cộng đồng dân cư khác đối với tài sản được hình thành theo tập quán, tài sản do các thành viên của cộng đồng cùng nhau đóng góp, quyên góp, được tặng cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật nhằm mục đích thoả mãn lợi ích chung hợp pháp của cộng đồng.
Các thành viên của cộng đồng cùng quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung theo thoả thuận hoặc theo tập quán vì lợi ích chung của cộng đồng nhưng không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Tài sản chung của cộng đồng là tài sản chung hợp nhất không phân chia.
Do đó, việc định đoạt tài sản chung cộng đồng phải có sự đồng ý của tất cả các thành viên của cộng đồng. Đây là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất, được hình thành qua thời gian lâu dài từ sự đóng góp của nhiều người, do tập quán hay lịch sử tạo nên. Các cụ cao tuổi trong làng chỉ là đại diện cho sở hữu chung cộng đồng chứ không có quyền tự quyết định. Việc bán cây gỗ tuy rằng vì mục đích chung để tôn tạo kiến trúc của ngôi đền nhưng cần sự thống nhất của các thành viên trong cộng đồng.
6. Xin hỏi, việc xác lập quyền sở hữu đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu được pháp luật quy định như thế nào?
Tại Điều 228 BLDS năm 2015 quy định việc xác lập quyền sở hữu đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu như sau:
1. Tài sản vô chủ là tài sản mà chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản đó. Người đã phát hiện, người đang quản lý tài sản vô chủ là động sản thì có quyền sở hữu tài sản đó, trừ trường hợp luật có quy định khác; nếu tài sản là bất động sản thì thuộc về Nhà nước.
2. Người phát hiện tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu phải thông báo hoặc giao nộp cho UBND cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.
Việc giao nộp phải được lập biên bản, trong đó ghi rõ họ, tên, địa chỉ của người giao nộp, người nhận, tình trạng, số lượng, khối lượng tài sản giao nộp. UBND cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người phát hiện về kết quả xác định chủ sở hữu.
Sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai mà không xác định được ai là chủ sở hữu tài sản là động sản thì quyền sở hữu đối với động sản đó thuộc về người phát hiện tài sản.
Sau 05 năm, kể từ ngày thông báo công khai mà không xác định được ai là chủ sở hữu tài sản là bất động sản thì bất động sản đó thuộc về Nhà nước; người phát hiện được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.
7. Trên đường đi tập thể dục buổi sáng, ông Chính phát hiện thấy có một chiếc túi xách đen rơi bên đường. Ông mở ra thấy có hơn 20 triệu tiền mặt và một số giấy tờ mang tên anh Nguyễn Văn D, tuy nhiên lại không rõ địa chỉ cư trú của anh D. Ông Chính sau khi hỏi những người xung quanh, không có ai nhận là đã đánh rơi chiếc túi xách này, ông liền mang tiền về nhà cất đi. Xin hỏi, quy định của pháp luật về việc xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên như thế nào?
Theo quy định tại Điều 230 BLDS 2015, việc xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên như sau:
Người phát hiện tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho người đó; nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở hữu.
Sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai về tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định như sau:
Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bỏ quên có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người nhặt được được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của BLDS 2015 và quy định khác của pháp luật có liên quan; trường hợp tài sản có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì sau khi trừ chi phí bảo quản, người nhặt được được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước;
Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hoá theo quy định của Luật di sản văn hóa thì tài sản đó thuộc về Nhà nước; người nhặt được tài sản được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.
Như vậy, ông Chính phải thông báo hoặc giao nộp cho Uỷ ban nhân dân cấp xă hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai mà không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định theo quy định nêu trên.
8. Việc xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước được pháp luật quy định như thế nào?
Tại Điều 233 BLDS năm 2015 việc xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước được quy định như sau:
Khi vật nuôi dưới nước của một người di chuyển tự nhiên vào ruộng, ao, hồ của người khác thì thuộc sở hữu của người có ruộng, ao, hồ đó. Trường hợp vật nuôi dưới nước có dấu hiệu riêng biệt để có thể xác định vật nuôi không thuộc sở hữu của mình thì người có ruộng, ao, hồ đó phải thông báo công khai để chủ sở hữu biết mà nhận lại. Sau 01 tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận thì quyền sở hữu vật nuôi dưới nước đó thuộc về người có ruộng, ao, hồ.
9. Việc xác lập quyền đối với bất động sản liền kề dựa trên các căn cứ nào? Quyền đối với bất động sản liền kề gồm có những quyền gì?
Theo quy định tại Điều 246 BLDS năm 2015, việc xác lập quyền đối với bất động sản liền kề dựa trên các căn cứ sau đây:
Quyền đối với bất động sản liền kề được xác lập do địa thế tự nhiên, theo quy định của luật, theo thoả thuận hoặc theo di chúc.
Theo quy định tại Điều 245 BLDS năm 2015, quyền đối với bất động sản liền kề là quyền được thực hiện trên một bất động sản (gọi là bất động sản chịu hưởng quyền) nhằm phục vụ cho việc khai thác một bất động sản khác thuộc quyền sở hữu của người khác (gọi là bất động sản hưởng quyền).
10. Thế nào là chiếm hữu có căn cứ pháp luật?
Theo Điều 165 BLDS năm 2015 chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong trường hợp sau đây:
- Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;
- Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản;
- Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật;
- Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;
- Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;
- Trường hợp khác do pháp luật quy định.
Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều này là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
11. Quyền về lối đi qua được pháp luật quy định như thế nào?
Theo quy định tại Điều 254 BLDS năm 2015 quy định quyền về lối đi qua như sau:
Chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng, có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên phần đất của họ.
Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.
Chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền về lối đi qua phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Vị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thoả thuận, bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên; nếu có tranh chấp về lối đi thì có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác xác định.
Trường hợp bất động sản được chia thành nhiều phần cho các chủ sở hữu, chủ sử dụng khác nhau thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người phía trong theo quy định nêu trên mà không có đền bù.
12. Pháp luật quy định việc chấm dứt quyền đối với bất động sản liền kề trong các trường hợp như thế nào?
Tại Điều 256 BLDS năm 2015 quy định về việc chấm dứt quyền đối với bất động sản liền kề như sau:
Quyền đối với bất động sản liền kề chấm dứt trong trường hợp sau đây:
Bất động sản hưởng quyền và bất động sản chịu hưởng quyền thuộc quyền sở hữu của một người; việc sử dụng, khai thác bất động sản không còn làm phát sinh nhu cầu hưởng quyền; theo thỏa thuận của các bên; trường hợp khác theo quy định của luật
13. Bác Khoan có thửa ruộng trồng lúa ven chân đồi. Nằm giữa nguồn nước tưới tiêu và thửa ruộng của bác là thửa ruộng của nhà bác Nga. Bác Khoan muốn dẫn nước tưới qua ruộng nhà bác Nga nhưng không được bác Nga đồng ý. Bác Khoan nóng vội muốn có nước tưới tiêu ngay nên đã to tiếng với bác Nga, hai bên xảy ra xô xát. Xin hỏi, quy định pháp luật về vấn đề này như thế nào?
Theo khoản 1 Điều 31 Luật Đất đai năm 2024 quy định người sử dụng đất đúng mục đích, đúng ranh giới thửa đất, đúng quy định về sử dụng độ sâu trong lòng đất và chiều cao trên không, bảo vệ các công trình công cộng trong lòng đất và tuân thủ quy định khác của pháp luật có liên quan.
Theo Điều 29 Luật Đất đai năm 2024 quy định về quyền đối với thửa đất liền kề bao gồm quyền về lối đi; cấp nước, thoát nước; tưới nước, tiêu nước trong canh tác; cấp khí ga; lắp đường dây tải điện, thông tin liên lạc và các nhu cầu cần thiết khác theo quy định của pháp luật.
Việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền đối với thửa đất liền kề thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự; đồng thời phải thực hiện đăng ký theo quy định tại Điều 133 của Luật này đối với trường hợp quyền về lối đi; cấp nước, thoát nước; tưới nước, tiêu nước trong canh tác.
Theo quy định tại Điều 253 BLDS năm 2015 về quyền về tưới nước, tiêu nước trong canh tác:
Người có quyền sử dụng đất canh tác khi có nhu cầu về tưới nước, tiêu nước, có quyền yêu cầu những người sử dụng đất xung quanh để cho mình một lối dẫn nước thích hợp, thuận tiện cho việc tưới, tiêu; người được yêu cầu có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó; nếu người sử dụng lối dẫn nước gây thiệt hại cho người sử dụng đất xung quanh thì phải bồi thường.
Như vậy căn cứ vào quy định pháp luật đất đai và luật dân sự, bác Khoan có quyền yêu cầu Bác Nga bố trí cho mình một lối dẫn nước thích hợp, thuận tiện cho việc tưới, tiêu. Bác Khoan có thể thỏa thuận mức bồi thường cho bác Nga nếu lối dẫn nước gây thiệt hại cho việc sử dụng đất của bác Nga.
14. Hân mồ côi cha mẹ từ bé và được vợ chồng ông bà Nha, một gia đình hàng xóm có kinh tế khá giả nhưng không có con nhận nuôi và rất mực thương yêu. Năm Hân 20 tuổi, đang học dở đại học, ông bà Nha biết mình sức khỏe yếu nên đã thống nhất lập di chúc tại một Văn phòng Công chứng để lại toàn bộ tài sản cho Hân (bao gồm: 06 cây vàng, 200 triệu tiền mặt và 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ). Sau khi hai ông bà lần lượt qua đời. Hân là người được thừa kế toàn bộ tài sản của ông bà nên một số bà con họ hàng khuyên bán một phần tài sản thừa kế để lấy tiền ăn học, sinh sống hàng ngày. Tuy nhiên, Hân băn khoăn vì không biết mình có quyền thực hiện việc này hay không?
Theo điều 624 BLDS năm 2015 quy định: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.
Theo khoản 1 Điều 630 BLDS năm 2015, di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
“- Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
- Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
Hình thức của di chúc đã được thể hiện bằng văn bản có công chứng.
Căn cứ theo Điều 158 BLDS năm 2015 quy định:
“Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật.”
Theo Khoản 4, Điều 45 Luật Đất đai năm 2024 điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất; nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất: “Trường hợp nhận thừa kế quyền sử dụng đất thì người nhận thừa kế được thực hiện quyền khi có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của Luật này”
Theo quy định tại khoản 1 Điều 133 Luật Đất đai năm 2024, người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất... thì phải thực hiện đăng ký biến động.
Như vậy, trong trường hợp này Hân là người thừa kế nên là chủ sở hữu với toàn bộ di sản của ông bà Nha. Hơn nữa, Hân đã là người thành niên nên có toàn quyền sử dụng và định đoạt đối với tài sản đó. Vì vậy, sau khi làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế, đối với tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu, Hân có quyền bán một phần số tài sản để lo cho việc ăn học, sinh hoạt hàng ngày của mình. Đối với di sản là bất động sản, sau khi khai nhận di sản thừa kế, Hân phải tiến hành đăng ký biến động đối với bất động sản đó.
15. Ông Duy thỏa thuận bán cho ông Bình 20 con lợn thịt. Sau khi đã thống nhất giá cả và lựa chọn 20 con lợn (ông Bình đánh dấu bằng sơn trên lưng những con lợn mà ông đã chọn), ông Bình đã thanh toán ½ số tiền, hẹn 7 ngày sau ông sẽ cho xe đến chở lợn về và sẽ thanh toán nốt ½ số tiền còn lại. Còn 1 ngày nữa đến hạn ông Bình chở lợn về thì 1 con lợn cái trong số lợn mà ông Bình đã chọn đã đẻ được 5 con và ông Duy phải chăm sóc số lợn con mới đẻ. Ngày hôm sau ông Bình đến và yêu cầu ông Duy giao cả 5 con lợn con mới đẻ. Ông Duy không đồng ý vì cho rằng khi ông Bình chưa nhận số lợn mua thì ông vẫn là chủ sở hữu và có quyền hưởng hoa lợi được sinh ra từ tài sản. Hai bên phát sinh mâu thuẫn. Xin hỏi, ông Duy có quyền được sở hữu 5 con lợn con không?
Theo quy định của Điều 161 BLDS năm 2015:
1. Thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản thực hiện theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan; trường hợp luật không có quy định thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên; trường hợp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là thời điểm tài sản được chuyển giao. Thời điểm tài sản được chuyển giao là thời điểm bên có quyền hoặc người đại diện hợp pháp của họ chiếm hữu tài sản.
2. Trường hợp tài sản chưa được chuyển giao mà phát sinh hoa lợi, lợi tức thì hoa lợi, lợi tức thuộc về bên có tài sản chuyển giao, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Như vậy, thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với số lợn mua bán là thời điểm số lợn được chuyển giao. Đó là thời điểm mà ông Bình thực tế chiếm hữu số lợn đó. Như vậy, cho dù bên mua đã đánh dấu số lợn đã chọn mua nhưng tài sản mua bán lại chưa chuyển giao quyền sở hữu. Theo khoản 2 Điều 161 BLDS năm 2015, hoa lợi sinh ra từ tài sản chưa chuyển giao sẽ thuộc về người có tài sản chuyển giao. Do đó, việc ông Bình yêu cầu ông Duy phải chuyển giao cả 5 con lợn con mới đẻ là không có căn cứ. Vì vậy, số lợn con thuộc về ông Duy.
16. Vợ chồng chị Hà và anh Tiên mua được một ngôi nhà trên diện tích 80 m2 thuộc ngoại ô thành phố Hải Phòng. Vì nhà đã cũ nên vợ chồng anh quyết định đập bỏ đi để xây lại nhà mới. Trong khi đang đập bỏ ngôi nhà thì anh Tiên đã phát hiện thấy 1 chiếc hộp bằng sắt được cất giấu ở góc của bức tường nhà. Anh đã cùng vợ phá chiếc hộp sắt thì thấy ở trong có chứa nhiều đồ trang sức quý bằng vàng. Tin tức về việc anh Tiên, chị Hà đào được hộp đồ trang sức quý lan xa. Người ta bảo anh, chị phải báo công an, nhưng anh Tiên cho rằng tài sản được tìm thấy trên đất nhà mình nên thuộc về mình. Xin hỏi, chiếc hộp tìm thấy trong nhà của chị Hà và anh Tiên có phải là của anh, chị không? Hành vi chiếm hữu của vợ chồng anh Tiên đối với số tài sản phát hiện được có phải là hành vi chiếm hữu hợp pháp hay không?
Hành vi chiếm hữu của vợ chồng anh Tiên đối với số tài sản trên là không phù hợp với quy định của pháp luật vì theo quy định tại Khoản 1 Điều 165 BLDS năm 2015, chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong trường hợp sau đây:
Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản; người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản; người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật; người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; trường hợp khác do pháp luật quy định.
Theo quy định của Điều 229 về xác lập quyền sở hữu đối với tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy: người phát hiện tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phải thông báo hoặc trả lại ngay cho chủ sở hữu; nếu không biết ai là chủ sở hữu thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, anh Tiên ngay sau khi phát hiện ra chiếc hộp sắt đó, nếu hai anh, chị không chứng minh được là của mình thì phải thông báo hoặc giao nộp cho UBND hoặc công an cấp xã gần nhất để thông báo tìm chủ sở hữu. Nếu chủ cũ của ngôi nhà (người đã bán nhà cho vợ chồng anh Hà, chị Tiên) chứng minh được quyền sở hữu đối với chiếc hộp sắt có tài sản đó thì được lấy về. Nếu sau khi thông báo công khai không có người nhận, thì hành vi chiếm hữu của vợ chồng anh Tiên mới là hành vi chiếm hữu hợp pháp. Số tài sản này sẽ được giải quyết theo quy định tại Điều 229 BLDS năm 2015 như sau:
Tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy mà không có hoặc không xác định được ai là chủ sở hữu thì sau khi trừ chi phí tìm kiếm, bảo quản, quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định như sau: tài sản được tìm thấy là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hoá theo quy định của Luật di sản văn hóa thì thuộc về Nhà nước; người tìm thấy tài sản đó được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật; tài sản được tìm thấy không phải là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hoá theo quy định của Luật di sản văn hóa mà có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì thuộc sở hữu của người tìm thấy; nếu tài sản tìm thấy có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người tìm thấy được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước.